admin
2024-10-06T15:42:51Z
Nhân chuyện có một số bác có hỏi về ý nghĩa của chữ “duy” trong văn khấn Hán Nôm và vấn đề có nên bắt đầu bài khấn bằng “Nam mô a di đà Phật”, vài dòng tạm biên kính các bác.
Trong bối cảnh Việt Nam, "tên nước", "quốc hiệu", "niên hiệu", và “hoàng hiệu” đều là các thuật ngữ liên quan đến danh xưng của quốc gia hoặc một triều đại, nhưng chúng có những ý nghĩa và cách sử dụng khác nhau. Dưới đây là sự phân biệt cụ thể giữa các khái niệm này:
1. Tên nước:
“Tên nước” là danh xưng chính thức của quốc gia, thường được sử dụng trong các văn bản pháp lý, ngoại giao, và các tài liệu chính thức. Tên nước đại diện cho hình thức nhà nước và bản sắc quốc gia.
2. Quốc hiệu:
“Quốc hiệu” là danh xưng mang tính biểu tượng và lịch sử được sử dụng để thể hiện bản sắc văn hóa, lịch sử và thể chế chính trị của một quốc gia. Quốc hiệu có thể trùng với tên nước hoặc là một danh xưng đặc biệt mà một triều đại hay một thời kỳ chọn để khẳng định sự độc lập và phát triển của quốc gia.
Quốc hiệu Việt Nam đã thay đổi qua nhiều thời kỳ, phản ánh sự thay đổi trong cấu trúc quyền lực và quan điểm chính trị.
3. Niên hiệu:
“Niên hiệu” là tên gọi mà một vị vua chọn để đặt cho thời kỳ trị vì của mình. Đây là tên của giai đoạn được sử dụng trong các tài liệu hành chính và pháp lý trong suốt thời gian mà vị vua đó trị vì. Niên hiệu thường được sử dụng để tính thời gian, ghi niên đại trong sử sách, văn bản.
Mỗi vị vua thường đặt một hoặc nhiều niên hiệu trong suốt thời gian trị vì của mình, và niên hiệu thường thể hiện ý nguyện, hy vọng của nhà vua về sự thịnh vượng và ổn định cho quốc gia.
4. Hoàng hiệu (皇号):
“Hoàng hiệu” là danh xưng chính thức của một vị hoàng đế, thường được phong sau khi lên ngôi hoặc khi đăng cơ, tương đương với đế hiệu. Hoàng hiệu không phải là tên giai đoạn trị vì như niên hiệu, mà là một danh xưng tôn kính được sử dụng để chỉ danh tính của vị vua trong tư cách là một thiên tử hoặc hoàng đế.
5. Chữ Duy trong văn khấn
"Duy" có ý nghĩa là "cương kì" với cái gì bao quát hợp nhất ngày - tháng - năm. Nếu văn khấn có hòang hiệu, đều phải lấy chữ “duy” để gắn hoàng hiệu với năm tháng. Vì hoàng hiệu chỉ có một và một vị Vua có thể có nhiều niên hiệu, do đó, thường dùng niên hiệu gắn với “năm thứ” để chỉ mốc thời một vị vua trị vì.
Cho nên, chúc văn, văn khấn, đều dùng chữ "duy", để riêng chữ ấy một hàng chính, là vì "duy" biểu thị ý chuẩn mực, pháp độ. Sau chữ “duy” là:
- Đối với chúc văn cáo yết, tế ngoại Thần: thì gắn “duy” với niên hiệu kèm với thứ tự năm cai trị và và ngày tháng theo lịch can chi / âm dương lịch, kết hợp với địa chỉ viết đầy đủ tỉnh (thành), huyện (quận), phường (xã), thôn (bản), số nhà, ... và tính danh chủ nhân lễ. Hàm ý nêu rõ nơi nào đang tế lễ, để cầu thần giáng xuống.
- Đối với chúc văn cáo yết, tế nội Thần: : thì chỉ gắn “duy” với niên hiệu kèm với thứ tự năm cai trị và ngày tháng theo lịch can chi / âm dương lịch, và tính danh chủ lễ và con cháu. Hàm ý vì con cháu tế lễ tổ tiên thì vốn đã ngự ở gia bản.
Ví dụ
Duy,
- Niên hiệu “năm thứ”, niên, nguyệt, nhật can chi; địa điểm; Chủ nhân lễ; lý do
Trong đó:
- Địa điểm: Việt Nam quốc, tỉnh (trấn), phủ, huyện, tổng, xã, thôn, xứ
- Chủ nhân lễ: tên của cá nhân hoặc tập thể (phường, xã) người cúng
- Lý do: trường hợp cúng (kỳ yên, đám cưới, v.v..)
Kết luận:
- “Tên nước” là tên chính thức hiện tại của quốc gia.
- “Quốc hiệu” là danh xưng tượng trưng, thường được thay đổi qua các thời kỳ để phản ánh vị thế của quốc gia.
- “Niên hiệu” là tên của thời kỳ trị vì của các vị vua, dùng để xác định niên đại của các sự kiện xảy ra trong thời gian đó.
- Chúc văn, văn khấn, đều dùng chữ "duy", để riêng chữ ấy một hàng chính, và gắn với thời gian + địa chỉ (nếu cầu gia thần) + tên chủ lễ cùng những người có liên quan.
- Ngày nay, chúng ta có tên nước / quốc hiệu là “cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, không có ‘niên hiệu” như các triều đại trong quá khứ, mà quốc hiệu không phải là thành phần trong văn cúng sau chữ “duy”, cho nên cần cân nhắc đưa vào văn khấn, chúc văn? Vì đây không có vai trò chỉ ra thời gia như niên hiệu.
- Với những tư gia phối thờ Phật và tổ tiên, gia thần, thì có nên thêm "nam mô a di đà Phật" ?
Privacy Policy | 2.31.16
Thời gian xử lý trang này hết 0,081 giây.